sáng con đường đất lót đầy lá vàng, đổ ánh sáng trong như
pha lê màu mật ong vàng óng.
Hồi đó nàng còn nhỏ lắm.
Nhớ đâu đang giữa lớp đệ
ngủ trường Gia Long.
Năm đó, là một năm buồn
thảm, năm Mậu Thân. Trước đó nàng như con chim se sẽ giữa
bầy se sẻ chíu chít bay ra bay vô căn nhà hạnh phúc, có Ba,
có Má, có chị em một nhà chộn rộn suốt ngày.
Một buổi sáng mùa xuân,
năm Mậu Thân, pháo nổ tưng bừng trời đất, từ nửa đêm trừ
tịch, Ba nói “tiếng pháo mừng Tết nhiều quá, lớn quá, dzui
quá”.
Đêm Giao Thừa ba bày bàn
thờ Thiên ngòai sân. Bàn thờ nhỏ, thấp chủn, có trải mặt bàn
thẳng thớm. Chị Hai biểu chị Ba chưng bông, nhỏ còn nghe chị
Hai thì thầm “mày có tháng hông ? có thì hỏng được chưng
bông bàn Thiên à nghen cưng“.
Hỏng nhớ chị Ba trả lời
cái gì, hay háy hó gì đó.
Nhớ cả nhà, mấy chị em cứ
chộn rộn chạy ra chạy vô, chẳng biết để làm gì. Mọi chuyện
hình như trôi chảy cách tự nhiên qua bàn tay sắp đặt của Ba
Má.
|
Những tấm màn cửa sáng
láng do chị Hai may từ mấy bữa trước phất phơ sau khung sắt.
Bàn thờ tổ tiên ông bà có hai trái dưa hấu tròn vo, trên có
dán miếng giấy đỏ. Lư hương chưn nhang sáng trưng, bình bông
vạn thọ vàng rôm, hai bên bàn thờ hai chậu mồng gà đỏ tươi
như chờ đón một năm may mắn an lành.
Ngoài trời đã thấy tối hù,
văng vẳng tiếng pháo.
Khi bàn thờ sắp dọn sẳn
sàng ngoài sân, đã có bình bông vạn thọ
thơm ngay ngáy nồng mủi, trái dừa
tươi vạt
mặt, dĩa mứt bí mứt dừa, mấy phong mứt mảng cầu trong giấy
kiếng trắng đỏ trong vắt, dĩa trái cây, chưn nhang, cặp đèn
cầy màu đỏ lấp lánh cháy giữa màn đêm, trong khỏang sân nhỏ
tráng xi măng trước cửa nhà. Ba dựng hai cây mía, chăm chút
cả buổi trời cho hai ngọn cây giao đầu vào nhau, thiệt đều
đặn phía sau bàn thờ . Rồi Ba mặc quần áo trang trọng. |
Sắp đặt xong đâu đó xong
xuôi, nhớ, không khí thơm ngát mùi nhang khi Ba đốt mấy cây
nhang. Ba khấn vái trước bàn thờ, để “Tống Cựu Nghinh Tân”.
Mấy Má con lấp ló đứng nơi cửa, ngóng nghe tiếng pháo lẹt
đẹt rồi tưng bừng vang rân từ đầu cư xá cho tới cuối xóm nhà
lá tuốt trong, nhấp nháy thiệt đẹp, rồi Má thúc hối bầy con
tám đứa mặc quần áo mới, theo
Ba Má qua chùa hái lộc Giao thừa.
Ngoài con đường trước cửa
nhà, nghe tiếng nói tiếng cười lao xao. Mấy đứa con trai
hàng xóm đốt đì đẹt những dây pháo nhỏ. Mấy chị em vừa đi
vừa né vừa dỡn. Qua Giao Thừa, đã là Tết rồi. Ba Má sẽ vui
cười, sẽ không la không rầy rà, vì kiêng cử ba ngày Tết,
sướng thiệt, tha hồ cắn hột dưa và xả rác.
Ba má qua ngôi chùa nhỏ
gần nhà, để xin xâm và hái lộc.
Ngôi chùa có cái vườn đầy
bông, quẩn quanh mấy con đường nhỏ xíu lót đá sỏi trắng
thiệt dễ thương. Dưới vài gốc cây có kê miếng ván nhỏ, đề
thơ nữa. Lâu quá không nhớ những câu thơ đó là gì. In như là
:
Những cánh hoa nầy rất
mỏng manh
Ngày mai cho gió cuốn xa
cành
Và ngày mai nữa ai đi dạo
Sẽ gặp hồn tôi trên cỏ
xanh (*)
Nhớ mình rất thích cảnh
trí của ngôi chùa nầy. Thích đứng ngắm nghía tượng Phật Bà
bằng thạch cao trắng, giống giống tượng Đức Mẹ ở cái sân nhỏ
trồng nhiều bông hồng xéo xéo nhà mình do hàng xóm Công giáo
dựng nên.
Cả hai khuôn mặt Phật Bà,
và Đức Mẹ đều mang một vẻ đẹp hiền hậu từ bi.
Những ngày Tết trôi đi,
thanh bình.
Qua mùng hai, mùng ba thì
báo và đài phát thanh đăng tin có biến động ở ngoài Trung,
Việt Cộng phá vở bình an của những ngày hưu chiến ăn Tết,
tấn công những tỉnh miền Trung, gây chết chóc, thê thảm cho
hầu hết dân xứ Huế và vài thành phố khác. Nàng đọc tin trên
báo, biết hầu hết nhà nào ở xứ Huế cũng có khăn tang, buồn
ơi!.
Sau Tết, trở lại trường
học, lớp của mình có thêm một cô học trò mới ngoài Huế vô,
từ trường Đồng Khánh tị nạn cộng sản. Thêm một Thầy dạy
Tóan, từ Quảng Trị vào. Lớp xôn xao về cô Huế nhỏ đẹp như
tiên sa, với làn da mịn màng trắng hồng như vỏ hột gà, mái
tóc “demi garson” ngổ ngáo chớ không phải là mái tóc thề e
ấp dưới vành nón lá bài thơ, ngộ ghê.
Cô nhỏ Huế Đồng Khánh mới
tinh chuyển sang trường Gia Long Saigon được bầu ngay “hoa
hậu lớp chiều “. Tuổi học trò không biết lo phiền chút nào.
Những ngày nầy, Ba có vẻ
trầm ngâm hơn.
Rồi một buổi sáng còn
xuân, một đòan lính trang bị như vừa từ trong rừng rậm miền
xa về thành phố với lá cây rừng ngụy trang trên chiếc nón
sắt. Những người lính trẻ lắm, gương mặt đen đúa phong
sương, dầy dạn. Tóan lính đều bước âm thầm tiến vô cư xá,
băng ngang trước nhà mình. Nàng hé cửa sổ, ngó ra ngưỡng mộ.
Lần đầu tiên nhìn thấy những người lính trận mà nào giờ chỉ
biết qua báo chí.
Ba nàng sửa soạn phim cho
cái máy chụp hình, rồi bước ra sân, ngắm nghía qua ống kính,
chụp hình đòan lính. Buổi chiều, khi từ sở làm về, ba đã có
trong tay những tấm hình thiệt đẹp đưa cho má và mấy chị em
coi.
Tóan lính ấy là Thủy Quân
Lục Chiến, tiểu đoàn 2, Trâu điên đóng quân ngay trong cư
xá.
Nàng biết rõ, vì ngày hôm
sau, có một người lính trong đòan tới nhà kiếm ba.
Sau đó, hai người, một già
một trẻ, nói chuyện thấy tương đắc lắm. Mơ với mấy chị em,
chỉ núp ló sau tấm màn mỏng ngay cửa buồng, đâu dám bước ra.
Ba cho Mơ một tấm chân
dung của người lính trẻ đã tới làm quen với ba , biết anh ấy
tên Minh. Trong hình, anh đứng hơi nghiêng, nón ngụy trang
lá cây, khuôn mặt đẹp trai, oai lắm, dù xạm đen gió bụi.
Lưng anh lính đeo súng, với những trái |
|
lựu đạn lủng lẳng.
Giày và áo quần lính lấm bùn đất ngó dơ lắm. Hôm sau, anh
lính ấy đem tới nhà cái áo lính sạch, nhờ may lại miếng huy
hiệu có hình trâu điên bị sút chỉ.
Mơ chưa nói với anh một
câu, dù là chào hỏi.
Anh tới, là Mơ chạy vội vô
buồng, để rồi từ đó, ghé mắt dòm ra. Vậy mà, tấm hình của
anh, Mơ đã ép vô trang tập giấy học trò theo Mơ dài hết bậc
Trung học. Cho tới ngày bỏ nước ra đi.
***
Một thời gian ngắn sau đó,
tóan lính Trâu điên rút đi, lúc nào không biết. Khi nàng đi
học về, đã thấy trong cư xá vắng lặng.
Mơ dõi theo tin chiến sự
hằng ngày, đọc ké tờ báo của má ba mua tháng. Biết được
những người lính Trâu điên đó đã trở ra miền Trung, nơi đang
có những trận đánh máu chảy thây phơi.
Mỗi ngày, nàng đều hé cuốn
tập, nhìn hình người lính chiến đã xa khuất tầm mắt học trò.
Sau Tết, thời gian hai
tháng trôi qua đầy lo sợ ngay tại thành phố.
Một hôm ba về nhà, thì
thầm với má về mấy người bạn đồng nghiệp của ba bị giết
chết. Mơ loáng thóang nghe về chuyện những lá cờ màu đỏ máu
lạ hoắc treo lên tường trong ban đêm, đến sáng có người leo
lên gở xuống, bị những viên đạn từ trong nhà nào đó nả ra,
chết tươi.
Rồi một ngày mùa xuân vẫn
còn, thành phố yên bình, Saigon bổng nhiên chìm trong khói
lửa, cộng sãn từ phương Bắc tràn vô Nam giết người.
Buổi sáng, trời còn mát,
xóm trong dân chúng gánh gồng túa ra, hớt hãi chạy ngang qua
nhà “ cháy … cháy, tản cư bà con ơi”.
Mơ leo lên nóc nhà với
chị, ngó vô xóm trong, ngó phía chân trời, thấy khói bốc
lên, rồi lửa bừng lên màu đỏ khé ở xa xa, hướng mặt trời
mọc.
Ba thay quần áo, nhét khẩu
súng vô cái bao có dây chéo mặc lót bên trong áo sơ mi
trắng, sửa soạn cái máy chụp hình, đeo lên vai, nói má đưa
mấy nhỏ tản cư qua nhà thờ trước, ba tới sau.
Ba đi về hướng lửa cháy,
ngược hướng nhà thờ.
Cả nhà chộn rộn, má lo cho
mỗi đứa một bọc quần áo, bọc gạo, rồi mấy má con dắt díu
nhau chạy qua nhà thờ. Trên trời máy bay trực thăng của lính
Cộng hòa quần quần kêu gọi mọi người mau tản cư qua vùng an
ninh, tạm thời là nhà thờ bên kia con đường Lục tỉnh.
Ai có ngờ, buổi sáng hôm
đó, là buổi sáng cuối cùng của năm Mậu thân. Ba có trở về
nhà, bằng một thể xác còn hơi nóng, và dòng máu chảy hoài
chảy hết thân thể. Bốn mươi năm theo đó, nhà Mơ không còn
cúng lễ Giao thừa nữa, mùa xuân đã đi theo ba về miền miên
viễn. Lần đầu tiên con nhỏ hiểu chiến tranh tàn nhẫn.
Rồi một ngày, anh Minh
“Trâu điên” nghỉ phép, ghé thăm ba, để chảy nước mắt trên
khuôn mặt gân guốc phong trần, thắp nén nhang cho ba trên
bàn thờ, rồi từ giả má : “Đời lính, sống chết gang tất bác
ơi, làm sao cháu lập gia đình !”.
Mơ núp ló bên trong tấm
màn cửa, ngó theo.
Tấm hình của anh do ba
chụp ngày Tết Mậu thân, Mơ vẫn ép trong cuốn tập, ngày ngày
đi học mang theo trong cặp, lâu lâu hé nhìn.
***
|
Hòang là bạn thân của chị
Ba. Từ trên Đà Lạt sương mù xuống Saigon học.
Anh mang một gốc dạ lý
hương từ nhà, cột sau xe Honda, đem tới nhà cho má. Má nàng
trồng trước sân, mùa sau đã thành bụi, trổ bông thơm cả cư
xá.
Hoàng tới như một giấc mơ
trong chuyện cổ tích, có chàng hòang tử, hôn lên môi nàng
công chúa đang yên ngủ.
Năm 16 tuổi trái tim nàng
bị cắn một phát đau nhói.
Tình yêu đẹp như chiếc
bánh sinh nhật đầu tiên hình trái tim với chùm bông hồng
tươi thắm màu đỏ, nằm ngoan trên mặt chiếc bánh sinh nhật do
Hoàng đem tới.
Thuở đó nàng hay mặc áo
dài trắng, mái tóc dài thường thắt hai bính thã buông trước
ngực, đong đưa theo bước chân. Tâm hồn nàng thì chúi vào
những trang sách mộng mơ, cuộc đời chưa thoáng buồn lo, dù
Ba vừa nằm xuống.
|
Sau đám tang Ba độ hai
tháng, một hôm mình và chị Ba cùng anh Hòang, ba đứa trở về
mái nhà xưa để dọn dẹp.
Căn nhà hạnh phút gần tang
hoang chỉ sau mấy tháng bỏ đi, khi ba chết. Nệm giường, nệm
ghế đều bị rọc tưa ra. Chỉ còn lại ba tấm hình chân dung của
ba chị em treo trên tường còn nguyên trong khung. Chị Ba thu
dọn rác rưới, vừa làm vừa hát lâm râm …”về đây bên mái lá
tàn hoang vu, về đây với tiếng hiu hắt lạnh lùng, ôi lãng du
quay về điêu tàn…”
Hòang đến nhà chơi gần như
mỗi ngày, bằng chiếc xe Honda cũ xì. Nhiều khi là đưa chị Ba
đi chơi hay đi làm về.
Hai người ấy luôn đi có
đôi, thân nhau lắm. Ai nấy đều tưởng hai anh chị sẽ đi tới
hôn nhân. Mà thiệt tình, trong đôi mắt ngây thơ, con nhỏ
cũng tưởng y như mọi người.
Cho tới một ngày anh muốn
kèm mình học, bất cứ môn nào mình cần, lý do năm thi, cần
học nhiều hiểu rõ. Trong các môn, mình kém sinh ngữ, nhất là
Pháp Văn. Vì cô giáo quá nghiêm khắc, nên tới giờ học Pháp
văn là cái đầu của mình tự nhiên đờ ra, không nhớ gì hết,
ngu tới nước !!!
Nghe Hòang đề nghị dạy kèm
cho mình môn sinh ngữ hốc búa nhức đầu nầy, Mơ mừng lắm. Lúc
đó, Mơ vẫn còn đi học bằng xe đưa rước. Lớp đệ nhị ra trước
một tiếng lớp đệ nhứt. Trong khi xe đưa rước còn chờ vài chị
lớp đệ nhất, mình có một tiếng đồng hồ trống, thường bu
quanh mấy xe đậu đỏ bánh lọt.
Mấy nhỏ bạn còn nhắc nhau,
“ăn đậu cho nhiều , thi đâu …đậu đó“
Tin chớ , vì mấy xe đậu đỏ
bánh lọt của trường Gia Long nầy lúc nào cũng đông nghẹt.
Một bữa, Hòang ngỏ ý muốn
tới trường gặp mình. Sợ ghê lắm, nhưng không hiểu sao vẫn
gật đầu.
Mỗi khi Hòang tới, hai má
nàng nóng ran, đỏ ửng lên, tim đập náo lọan, còn bị bạn bè
chọc.
Từ đó, mỗi tuần 1,2 ngày,
Hòang tới đón Mơ bên hông trường GL. Hoàng thường đưa nàng
tới quán cà phê Hân bên Đa Kao. Quán cà phê nho nhỏ, trang
hoàng những tranh ảnh rất đẹp, và thường có phát thanh nhạc
do Khánh Ly và Lệ Thu ca thật hay.
Ở đó cũng thường có mấy
cuốn tạp chí bằng tiếng Pháp, anh thường đọc, hay dịch cho
mình nghe. Tình cảm cứ êm đềm và trong vắt như những giọt
sương mai. Chưa có cái nắm tay nhau.
Ngồi sau yên chiếc xe
Honda của Hòang, mình khép nhẹ tà áo trắng, bàn tay nắm lấy
chiếc yên xe. Gió thổi ào hai bên chỉ dám nép mình phía sau
lưng anh nhè nhẹ trong mùi hương con trai rất lạ lùng.
Một lần anh đưa mình đi
chơi Biên Hòa, lên núi Bửu Long. Lúc trèo đèo ngang suối,
anh dùng hai bàn tay bốc ngang eo, đưa mình qua suối. Một
cảm giác như cháy bỏng, ngọt ngào xuyên qua tà áo dài.
Rồi một ngày, tình yêu vừa
tới, đã vụt bay, như chiếc bong bóng xinh đẹp, vuột khỏi bàn
tay nhỏ, bay lên cao mất dạng.
Ai có ngờ, buổi sáng đó,
là buổi sáng cuối cùng, với người yêu đầu đời. Cuộc đời
giống như bánh xe quay tiến về phía trước, chợt xút dây sên,
kéo lại sửa chữa chút chút, bánh xe lại tiếp tục quay về
phía trước.
Đối với nàng, Đà lạt là
một giấc mơ cứ trở đi trở lại, mơ hồ như vòm trời mưa bụi
lất phất bay, phủ mờ cảnh vật, mơ hồ như giấc mơ.
Rẫy vườn nhà Hòang ở Đơn
Dương, cách Lạc Lâm mười bảy cây số, và cách Đà Lạt bao xa?,
nàng chưa từng được biết.
Cứ mỗi lần cây dạ lý trổ
nụ trắng cành, rồi thả hương ngây ngất là nàng lại trở về
cơn mơ cũ, với mùi hương dạ lý từ đất Đơn Dương cắm ngập hồn
nàng từ thuở thanh xuân.
Trong giấc mơ nàng thường
không có trọng lượng, nhẹ tênh, bay bềnh bồng theo những đám
|
|
mây trắng, trên bầu trời rất trong rất xanh, nhiều tầng mây
lớp lớp. Ngó xuống bên dưới những ô vuông xinh xắn, đủ màu
xanh, xanh đậm, xanh tươi, xanh pha màu vàng của bông cúc,
xanh pha màu bạc của phấn trắng, xanh pha màu cỏ non, màu
cải trời, màu bông bí …những luống cải lúc nào cũng ướt đẩm
sương.
“Anh sẽ đem em về đây, xây
căn nhà nhỏ bên suối, phía sau nhà có cái thác nhỏ rì rào
quanh năm. Mỗi buổi sáng mình sẽ cùng nhau đón mặt trời mọc,
đẹp lắm em, buổi chiều, mặt trời lặn, anh chắc không nơi nào
đẹp bằng ráng chiều Đơn Dương trên rẩy. Buổi tối mình đón
trăng lên. Anh sẽ đưa em về rẩy nhà anh, rẩy vườn đang chờ
bàn tay anh , anh sẽ đem em về với anh …”
Nàng ứa nước mắt, ngay cả
trong giấc mơ.
Giấc mơ nào cũng có màu
xanh của rẩy từ làng Đơn Dương qua tới làng Lạc Lâm.
Nàng chưa bao giờ đặt chân
tới.
Có một lần, nàng đi con
đường đèo quanh co từ Nha Trang qua Đà Lạt, không gian trên
lối khúc khuỷu bốc một mùi, mùi rẩy, mùi đất.
Chiếc xe jeep ngừng trên
một con dốc cao.
Trời mưa lất phất.
Những hạt mưa bay xiên,
như sương, lạnh giá buốt phả vào mặt, phủ ướt mái tóc dài.
Nàng đứng thẳng, nhìn đồi,
nhìn núi, nhìn thông, nhìn dốc cao, nhìn lũng thấp, nhìn
mây…
Lòng tự hỏi Đơn Dương ở
hướng nào?
Lòng thê thiết !
Anh đang ở đâu?
Vườn rẩy, ngôi nhà của
chúng ta, dòng thác phía sau …suốt chiều dài cuộc đời nàng,
những giấc mơ thỉnh thoãng trở về bay lượn trên bầu trời Đơn
Dương.
Ngôi nhà đó, nay chắc đã
mục rã? Rẩy vườn đó, bàn tay anh có còn vun xới? Chiều
chiều, anh có ngồi ngắm ráng chiều rực rỡ sau những rặng
thông?.
Những giấc mơ bay lượn,
tưởng chừng mới đêm qua trên bầu trời Đơn Dương, một nơi
nàng chưa bao giờ đặt bàn chân lên đất …
Bốn mươi năm trôi qua như
một giấc mơ.
Tấm hình người lính trẻ đã
thất lạc vào đêm cuối cùng trên quê hương khói lửa. Nhớ anh,
nàng không còn tấm hình ép trong tập, để lâu lâu hé nhìn.
Hình ảnh người yêu đầu đời
mãi bay lượn trong giấc mơ, và đêm Giao thừa hạnh phúc cuối
cùng … như là một chuyện cổ tích ở xứ nào đã xa lắc xa lơ
nửa vòng trái đất.
Con đường trong giấc mơ,
hai đứa nắm tay nhau chạy, phơi phới như ngọn gió xuân ấm
áp, cũng chỉ là một chuyện cổ tích thần tiên trong giấc mơ
của nàng.
Bốn chục năm đã trôi qua …
không thể mưa hoài, đất trời đang mang một màu tươi mới đón
gió xuân, và lòng nàng thì vẫn nhớ, y như bốn chục năm xưa.
Ngọc Anh