Quê
tôi ở gần vùng Đồng Tháp Mười nên ngày xưa,
vào mùa nước nổi, gần như năm nào cũng bị
ngập, không lớn thì nhỏ. Hồi đó người ta gọi
là nước lụt chớ không gọi là lũ và cũng chưa
có khái niệm “sống chung với lũ”. Nhưng hễ
năm nào có nước lụt lớn là tết năm đó ăn cá...
mệt nghỉ. Thường thì chu kỳ khoảng 5 năm có
lụt lớn một lần, như năm 1961, 1966 và 1978,
1984...
- Vạn thọ Tết ở vườn hoa Sa Đéc -
Thời chiến tranh, vùng Đồng Tháp Mười gần
như bỏ hoang, không có người ở, nên đến mùa
nước lụt thì cá từ Biển Hồ (Campuchia) theo
dòng nước chảy tràn về Đồng Tháp Mười rồi
xuống vùng hạ lưu nhiều vô số kể. Hồi đó
cũng chưa có bờ vùng, bờ bao, nên nước đến
rất nhanh rồi sau đó cũng rút cạn rất nhanh.
Dĩ nhiên những năm lụt lớn thì hầu hết nhà
cửa đều bị ngập. Vì vậy người ta phải bắc
cầu, đóng cọc ngay giữa nhà và hạ vách tre
xuống làm sàn, đồng thời phải đi lại bằng
xuồng.
Nhưng nước lụt cũng mang theo nhiều nguồn
lợi: Đầu mùa nhà nào cũng mua lưới về giăng
bắt cá rô. Giữa mùa thì giăng câu bắt cá lóc,
cá trê. Đến khi nước rút, tôm cá từ trên
ruộng chạy xuống đìa, người ta lại tát đìa
bắt cá để dành ăn tết.
Chính vì vậy mà quê tôi đến giờ vẫn còn tồn
tại rất nhiều ao, đìa ở xung quanh nhà nhưng
chẳng biết để làm gì, bởi bây giờ đâu còn
nhiều tôm cá. Nhưng hồi đó ao đìa được chăm
sóc rất cẩn thận, năm nào người ta cũng nạo
vét thật sâu rồi thả chà, thả lục bình, chờ
đến khoảng 25 tháng Chạp thì tát bắt cá.
Thời đó chưa có máy bơm nước nên đìa được
tát bằng gàu dai. Gàu dai được đan bằng tre
có hình chóp, miệng tròn, đít nhọn, mỗi bên
buộc hai sợi dây luộc (loại dây được thắt
bằng bẹ chuối khô) dài chừng 3m vào miệng và
đáy gàu, để hai người đứng ở hai bờ miệng
đìa nắm hai đầu dây cùng tát.
Vì đìa rất sâu và dài, có đìa dài tới cả
trăm mét theo hình chữ L hoặc chữ U nên có
khi tát gần nửa ngày mới cạn. Khi tát cạn,
chủ đìa dàn hàng ngang từ 3-4 người để mò cá,
vì cá lóc thường chúi rất sâu dưới bùn. Theo
sau là cả chục người đi... bắt hôi và họ
thường bắt được những con cá bị sót bự chảng
khiến chủ đìa tiếc hùi hụi.
Mỗi
lần tát đìa như vậy thì lượng cá được tính
bằng giỏ lớn và rộng bằng nhiều thạp da bò
để dành ngày tết. Chủ yếu là cá lóc, cá trê
vàng và cá rô lớn bằng 3 ngón tay trở lên,
còn cá sặt, tép, cá chạch, lươn... thì không
kể. Cá nhiều vậy nên món ăn ngày tết cũng
rất nhiều cá. Cá rô kho với thịt, cá lóc nấu
canh chua, cá lóc nướng rồi xé trộn rau răm,
cá trê vàng nướng dầm mắm gừng...
Cũng vào khoảng 23 tháng Chạp, sau khi “đưa
ông Táo về trời” thì nhà nào cũng lo xay bột
để tráng bánh. Trước đó chừng nửa tháng thì
phải đắp lò bằng đất sét trộn với trấu, để
cho khô. Nồi tráng bánh xưa má tôi dùng bằng
cái ơ đất, bên trong chứa 2/3 nước luôn nấu
sôi và bốc hơi, phía trên mặt thì bọc một
lớp vải trắng để đổ bột. Dụng cụ để quây
bánh làm bằng phần dưới của miểng dừa được
cạo cho thật láng rồi tra cán dài chừng 5
tấc. Ngoài ra, còn có cây lẹm được vót bằng
tre thật mỏng để lấy lấy bánh ra. Nhiều vĩ
phơi bánh được đan bằng lá dừa và một ống
tre tròn để cầm bánh đem phơi. Thường phải
mất một ngày nắng gắt bánh mới khô và nướng
ăn được.
Nhưng trong khi chờ ăn bánh tráng nướng thì
lũ nhỏ chúng tôi được dịp ăn bánh ướt. Vì
tráng bánh cùng thời điểm với tát đìa nên
tép đựng cả thúng. Má tôi lựa ra một số đem
luộc rồi hái đọt vừng, đọt lụa và nạo dừa
cho anh em tôi cuộn tép với bánh tráng, chấm
nước mắm. Khi tôi còn bé thì chưa có bột
ngọt nên chỉ làm nước mắm tỏi, ớt thôi. Bấy
giờ nước mắm Phan Thiết đựng bằng cái tỉn
chừng một lít rưỡi, chẳng biết bao nhiêu độ
đạm nhưng rất thơm. Khi ăn, cảm thấy rất
ngon bởi vị ngọt của tép và cơm dừa, vị chát
của đọt vừng và vị chua của đọt lụa cùng với
vị mặn, thơm lừng của nước mắm Phan Thiết.
Mà nước mắm hồi đó người ta đâu có ủ bằng...
phân urea, ngon lắm!
Mắm kho
Ở miệt quê Tháp Mười, không ai lại không
biết đến bông súng chấm mắm kho, món ăn dân
dã nhưng hương vị đậm đà khó quên mà không
phải nơi nào cũng có. Mỗi năm, hễ ăn Tết
xong là bà con bắt đầu tát mương, vũng, đìa
để bắt cá đồng, con to đem bán, con nhỏ mang
về làm mắm, chờ qua mùa nước nổi thì giở ra
ăn dần…
Mắm kho ngon nhất là chấm với bông súng ở
đìa, mà không phải bông súng nào cũng ngon
như nhau, chỉ có loại bông súng trắng, cọng
nhỏ cỡ chiếc đũa ăn cơm, ăn mới mềm, có “hậu”
ngọt… Mùa nước về bông súng càng lên nhanh
trắng đồng, nhổ về để nguyên cọng rửa sạch,
tước vỏ bên ngoài, ngắt mỗi cọng độ dài
chừng hai gang tay, để trong rổ cho ráo
nước. Mắm dỡ ra có màu đỏ thẫm thơm lừng,
bông súng bỏ vào chén, chan nước mắm kho lên
trên. Chất cay của ớt, the của sả, ngọt của
tép, cái giòn của bông súng tạo thành món ăn
tuyệt vời, đơn sơ, ít tốn kém mà vẫn đậm đà
hương đồng gió nội.
Bông điên điển
Một “đặc sản” khác của Tháp Mười mà không ai co'
thể bỏ qua đó chính là bông điên điển. Gọi
là "đặc sản" vùng lũ, vì hằng năm cứ vào mùa
nước lên là bông điên điển trổ vàng khắp
cánh đồng nước nổi. Ai đã từng đến miền Tây
vào mùa nước nổi thì không thể không biết
đến nồi canh chua bông điên điển. Khi con
nước tràn ngập các bờ sông, bờ ruộng cũng là
lúc điên điển trổ đầy cành những đoá hoa
vàng rực màu nắng phương Nam, phất phơ trong
ngọn gió hoặc rũ oẳn trong những cơn mưa.
Đến Tháp Mười vào mùa này, bạn sẽ thấy dọc
theo hai bờ những tuyến kênh dài hàng mấy
chục cây số, bông điên điển nở rộ thành từng
chùm, ửng vàng chen lẫn sắc xanh của lá.
Bông điên điển giờ đây đã trở thành đặc sản
“cây nhà lá vườn”, được chế biến thành nhiều
món ăn ngon mà những người con quê hương nếu
có đi xa sẽ còn lưu giữ mãi trong ký ức.
Tết này về quê, thấy đứa cháu đem bánh tráng
ra nướng, tôi hỏi ở đâu, nó nói là mướn
người trong xóm tráng. Hỏi bao nhiêu?, nó
nói một chục lít gạo người ta lấy tiền công
10.000đ. Gạo, dừa, mè... là của mình. Chạnh
nghĩ người dân quê giờ kiếm tiền khó thật.
Một chục lít gạo xay thành bột phải tráng
gần một buổi mới xong. Lấy 10.000đ nhưng
phải ngồi bên bếp lửa nóng hừng hực, ẹo
lưng, rát mặt, chớ đâu phải dễ.
Bánh phồng
Nhưng tráng bánh dù sao cũng còn ít công phu
hơn là quết bánh phồng. Ngày xưa, cả vùng
quê chừng 3-4 xã chỉ có 1-2 nhà máy chà lúa.
Mỗi lần chà gạo, nhà không có đồng hồ, má
tôi phải thức dậy từ lúc gà gáy bận nhứt để
bơi xuồng đi chừng 4-5 cây số tới nhà máy
chà bắt số thứ tự. Khi chà được gạo thì mất
hơn nửa ngày. Tốn công như vậy nên ngày tết
muốn ăn bánh phồng thì cứ đem nếp vỏ ra cối
xay thành nếp ruột rồi cho vào cối giả trắng,
sau đó đem đi ủ rồi nấu thành xôi. Công đoạn
tiếp theo là cho xôi vào cối rồi tiếp tục
quết bằng chày cũng giống như là giã gạo.
Cũng từ lúc gà gáy bận nhứt, ba má tôi phải
thức dậy và quết liên tục cho tới sáng, khi
nào xôi đã thành bột thật nhuyễn mới đem ra
cán thành bánh phồng và đem phơi. Quết càng
lâu, càng nhuyễn thì khi nướng bánh phồng sẽ
càng nở lớn. Cũng vì vậy mà những ngày cận
tết, ở nhiều vùng quê xưa, khi chân trời
phía đông rạng lên những ánh hồng thì người
ta nghe rền vang âm thanh cùm cum, cùm cum
thật nhịp nhàng của tiếng chày quết bánh
phồng xen lẫn với tiếng gà gáy sáng.
Tuyến
Lê Sưu
tầm