Thời
tiết mùa hè ở Melbourne năm nay thật kỳ lạ.
Chỉ còn một tháng nữa là sang Thu nhưng chưa
có được những ngày nóng thật sự cháy da như
những năm qua. Trời mát dịu với nhiệt độ
trong khoảng 20oC – 23oC,
một nhiệt độ lý tưởng cho những ngày Thu
chưa sang. Tuy nhiên, bầu trời thường xuất
hiện từng cơn gió mạnh không phải để thổi
rụng những chiếc lá vàng (vì chưa có), mà
lại “bứt” đi những chiếc lá xanh còn quấn
quít trên cành. Một dấu hiệu gì đây? Có phải
chăng thời tiết ở Nam Bán Cầu năm nay muốn
hòa điệu cùng thời tiết Bắc Bán Cầu đang
chập chững bước vào Xuân, nơi có quê hương
tôi, chuẩn bị đón thêm một cái Tết với nhiều
hy vọng, mà, giúp tôi mơ tưởng nhiều kỷ niệm
với những cái Tết năm xưa nơi quê nhà sau
gần ba mươi năm trời viễn xứ trong lãng quên.
Một sự lãng quên không “vô tình” vì hằng năm
tôi vẫn thường nhớ đến những cái Tết thời
còn trai trẻ với những bài hát cứ vấn vương
trong đầu như: ”Mừng
Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi……”
hay “Mùa Xuân
sang có hoa Anh Đào….” trong
những dịp tổ chức văn nghệ cuối năm ở
trường.
Tôi
và vợ cùng với một đứa con còn nhỏ mới sinh
được … 20 ngày rời Việt Nam vào cuối tháng 5
năm 1979 và đến Hồng Kông vào đầu tháng 6,
cho nên tôi có nhiều chuyện lo toan hơn
những người khác. Do vậy, vừa đến bến bờ tự
do, tôi phải bôn ba, bương chải kiếm việc
làm và sẵn sàng làm bất cứ việc gì để bảo
bọc cho cái gia đình bé nhỏ của mình. Ngày
tháng cứ thế trôi qua mà tôi không còn khái
niệm thời gian là gì, chỉ biết ráng đi làm
kiếm tiền hầu tích lũy được một ít vốn để
chuẩn bị cho cuộc sống mới nơi một nước thứ
ba.
Một hôm, chúng tôi, những công nhân làm
trong một xưởng lắp ráp radio-cassette cho
xe hơi được thông báo là trong hai tuần nữa
sẽ được nghỉ một ngày ăn Tết nhân dịp đầu
năm Âm lịch. Lúc đó tôi mới sực tỉnh là cái
Tết đã cận kề. Trở về trại, tôi nhắc Bà Xã
coi chuẩn bị mua ít đồ cúng ông bà và đón
Giao Thừa mặc dù trong trại tỵ nạn thiếu
thốn mọi bề và tôi cũng không thiết tha gì
mấy. Rồi thì ngày Tết không đợi cũng phải
đến trong bâng khuâng và tò mò. Không biết
cái Tết của Hồng Kông có giống như cái Tết
của mình hay không?
Hy vọng là với một quốc gia mà đa số là
người Hoa, Phật Giáo là Tôn giáo chính thì
cái công việc đón Tết của họ chắc không đến
nổi nào, mình có thể vui ké. Tuy nhiên tôi
hoàn toàn thất vọng cho cái ảo tưởng của
mình. Nằm trong mùng đón Tết với cái giá rét
cắt da của khí hậu khắc nghiệt Hồng Kông
trong một đêm Giao Thừa hoàn toàn im ắng và
buồn thỉu, buồn thiu. Không một tiếng nhạc
mừng Xuân, không một tiếng pháo đón Xuân (vì
nơi này đã bị cấm đốt pháo từ nhiều năm
trước), chỉ có hai vợ chồng lục đục cúng ông
bà trong cái không khí tẻ nhạt của đêm Giao
Thừa và trong một diện tích chưa tới 4m2
nhưng hỗn độn và bề bộn của trại tỵ nạn dành
cho mỗi đơn vị gia đình. Sáng Mồng Một, được
nghỉ một ngày, chúng tôi lân la chúc Tết
những gia đình mới quen, ai nấy đều nở những
nụ cười gượng gạo trên môi. Vì sao? chắc quý
vị cũng hiểu.
Cái làm cho tôi nhớ nhiều nhất là thời tiết
lúc đó. Nếu tôi nhớ không lầm thì chỉ có 10oC
(đêm Giao Thừa). Với một người mới đến từ
một quốc gia mà nhiệt độ trung bình là 30oC
thì với cái lạnh như thế thì thật là ghê gớm
(chứ như bây giờ thì ăn thua gì), vì thế
trong lòng tôi càng thêm tê tái và nhớ nhà
kinh khủng.
Còn
một điều nữa cùng cần nói ra, mà tôi nghĩ đã
có nhiều người biết, là ở Hồng Kông hầu như
không còn tìm thấy tình người, nhất là giới
trẻ, họ luôn tự nhận mình là người Anh,
không phải người Hoa, vì trong khai sanh
luôn mang tên tiếng Anh với quốc tịch Anh và
họ hãnh diện điều đó, thậm chí họ còn bôi
bác người Hoa nữa. Sở dĩ tôi biết được là vì
tôi có tiếp xúc với nhiều người trẻ (lúc đó
tôi cũng còn trẻ mà) và họ khẳng định với
tôi như thế. Do ảnh hưởng lối sống của mẫu
quốc cho nên cách cư xử luôn luôn lạnh lùng,
vô tình, nặng tính chất bề ngoài, dóc tổ,
không thành thật, và …kỳ thị cả những người
tóc đen, da vàng, mủi tẹt…như tôi. Vì vậy
tôi không hứng thú khi phải tạm ở đây. chỉ
mong được đi định cư ở một nước thứ ba càng
sớm càng tốt. Không phải tôi là một người
bạc nghĩa, vô ơn đối với những người đã cưu
mang mình. Không, không phải thế! Tôi rất
mang ơn chính phủ Hồng Kông đã không quản
ngại khó khăn mà chấp nhận chúng tôi trong
những bước đầu làm lại cuộc đời. Tôi luôn
ghi nhận ơn sâu này, nhưng bảo tôi phải nhận
Hồng Kông là quê hương thứ hai thì nhất định
không, vì nơi đó tôi tìm thấy tình
người…nhạt hơn nước ốc.
Cuối
cùng thì cái gì phải đến, đã đến sau 12
tháng trời lây lất trong trại tỵ nạn. Chiếc
phi cơ Boeing 747, QF28 của hãng Hàng Không
Úc Đại Lợi Qantas đã mang chúng tôi tới một
quốc gia rất còn xa lạ, chỉ nghe nói mà thôi
chứ không biết nó nằm ở đâu trên bản đồ. Từ
trên cao nhìn xuống lúc phi cơ gần đáp, nói
thật, tôi thì thất vọng không ít. Xứ sở văn
minh gì mà không thấy nhà lầu cao tầng,
không thấy nhà máy “xịt khói” mịt mù, mà chỉ
toàn là nhà trệt lụp sụp, thấp lè tè, còn
nữa, trước đó, máy bay bay ngang một vùng sa
mạc vàng cạch, mênh mông mất hơn 5 tiếng
đồng hồ. Tôi nghĩ, thôi chết rồi, không lẽ
chạy trốn kinh tế mới ở Việt Nam, bây giờ
lại chui vô vùng kinh tế mới khác, lớn hơn
mà lại lạ hoắc, lạ
quơ. Biết làm sao bây giờ,
“thôi đành
nhắm mắt đưa thân, để xem con tạo, nó dzần
mình ra răng”.
Những
điều tôi lo sợ lúc còn trên máy bay hoàn
toàn vô căn cứ, trật lất, sai be, sai bét.
Chúng tôi được đón tiếp như những vị “anh
hùng” vừa trở về từ trận mạc tưởng tượng. Họ
đã đón tiếp chúng tôi thật chân tình, thật
an ủi, lo lắng và đầy ắp tình nhân loại. Chỗ
ở, chỗ ăn (ngày ba bữa), quần áo, dày dép
được chuẩn bị thật chu đáo… nói chung là mọi
nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống mới bắt
đầu đều được chăm sóc từ A đến Z, chúng tôi
chỉ việc ăn, ngủ, chơi (không có bời), xem
tivi, coi phim…và học Anh Văn để chờ ngày
hội nhập vào xã hội mới. Ngay cả những việc
cá nhân như drap giường, áo gối, khăn tắm..,
mỗi ngày họ đều cho người tới thay và đem đi
giặt. Có phải thiên đường không?
Thiên đường ở trần gian chứ còn gì nữa.
Người
ta thường nói “nhàn cư vi bất thiện”, ở đây
chúng tôi không làm điều gì ác, điều gì xấu,
nhưng, sướng quá sanh tật. Tự mình đánh giá
cao mình rồi lựa “job”, mặc dù thỉnh thoảng
có xe của các hãng xưởng, công ty tới trại
tạm cư của chúng tôi nhận người đi làm sau
khi tốt nghiệp một khóa Anh Văn căn bản. Chê
ỏng, chê eo để kéo dài thời gian sung sướng,
trong số đó có tôi. Nói vậy chứ tôi và một
số người khác được ưu tiên vì có con nhỏ,
tôi xin nói rõ là xứ Úc này rất quý con nít
vì dân Úc không chịu đẻ, cho nên tôi cũng
được dựa hơi mà không phải gấp gáp đi kiếm
việc làm, mặc dù không ai thúc ép, trừ phi
lì quá như thằng bạn của tôi (hắn đã ở trong
trại tới 16 tháng vì có 3 đứa con).
Những
ngày tháng thong dong tự tại trong trại tạm
cư, ngoài giờ học, chỉ việc đá banh, tắm
biển, bắt bào ngư (ở Úc bào ngư nhiều vô kể,
lúc đó người Úc chưa biết đây là loại hải
sản quý, hiếm nên chúng tôi tha hồ bắt, vừa
ăn, vừa phơi khô, đến nổi bào ngư lớn không
kịp cho tụi tôi bắt, bây giờ thì khỏi đi, lớ
quớ là bị phạt tới sạt nghiệp luôn), đi
shopping (chuyên môn sử dụng xe lửa…cọp, nếu
bị phạt, cứ việc đưa địa chỉ nơi mình cư ngụ
là được tha liền), và nếu có đi lạc, khỏi
lo, “nắm đầu” một ông Police nào đó mà mình
bắt gặp trên đường sẽ được anh “bạn dân” chở
về ngay tuýt suỵt, hoặc trường hợp của tôi
hơi đặc biệt là lúc đó anh “bạn dân” đang
bận, anh ta bèn kêu “taxi” chở tụi tôi về và
trả tiền trước, khoái không. Cho nên tôi đã
chuẩn bị thật chu đáo cái Tết đầu tiên nơi
quê hương thứ hai (lúc này tôi đã “chịu”
nhận Úc là quê hương thứ hai
!) với toàn là bào ngư. Món nào cũng thành phần
nguyên liệu chính là bào ngư: món mặn, món
xào, món hầm, món soup, có cả bào ngư nhúng
dấm,… đặc biệt là món bào ngư nướng ướp với
dầu hào trộn tỏi bầm, đầu Xuân lai rai với
vài chai bia 750ml, thật là
sung
sướng
…
Do
vậy, tôi đã được hưởng một cái Tết đầu tiên
an bình, ấm áp, hạnh phúc và hưởng thụ nhất
với vợ con và bạn bè đồng hương xung quanh.
Một cái Tết khó quên cho những ngày đầu lập
nghiệp nơi xứ người, một xứ sở toàn là sa
mạc khô khan nhưng đầy ấp tình nhân ái và
thật thà.
Tiện đây tôi xin nói thêm một chút chuyện
vui về những ngày đầu sắp sửa đi định cư. Vì
không biết gì nhiều về đất nước mà mình sắp
đến, tôi mon men đi hỏi những người chung
quanh cũng sắp sửa lên đường như mình về đời
sống, sinh hoạt của nước Úc ra sao. Không
biết thì thôi, họ lại “nồ” tôi dân Úc không
ăn gạo, chỉ toàn là bánh mì, không có nước
mắm, không có chén, đủa. Cuộc đời tôi, từ
nhỏ tới lớn, một hai ngày không có cơm,
không có nước mắm là không chịu được, nhưng
biết làm sao, không lẽ mang mấy bao gạo theo
thì chịu đựng được bao lâu. Thôi thì, người
ta sao mình vậy, duy chỉ có một điều làm tôi
lo lắng là lúc đó con tôi đang bị bịnh nên
tôi đành phải đem theo 2 kg gạo vì cần nấu
cháo cho cháu và mua thêm mấy cái chén, mấy
đôi đũa. Thật tẻn tò vì bị hố nặng, nhà quê
ơi! là nhà quê. Đúng là bị quê một cục thiệt
bự.
Sau vài ngày nghỉ “mệt”, có mệt đâu mà
nghỉ, nhưng có lẽ muốn cho chúng tôi tỉnh
hồn ở một nơi xa lạ, nên Ban Điều Hành Trung
Tâm mới tập trung chúng tôi lại và tuyên bố
là sẽ chở chúng tôi tới một nơi mà họ không
cho biết trước nhưng bảo đảm sẽ rất thích.
Không sai chút nào, nghĩ mà tội nghiệp cho
Chính Phủ Úc, họ lo cho mình còn hơn là lo
cho con cái họ. Nơi chúng tôi được đưa đến
là một tiệm tạp hóa, nói nôm na là shop tàu
cho dễ hiểu và là tiệm duy nhất lúc đó thuộc
khu phố Richmond (đây là nơi những người
Việt tỵ nạn đầu tiên làm ăn, sinh sống) do
người Việt làm chủ, bà chủ tiệm đón tiếp
chúng tôi thật niềm nở và hỏi han lia chia.
Thôi thì khỏi cần giải thích, quý vị cũng
hiểu là chúng tôi vui mừng cở nào. Cái gì
cũng có, xá gì ba cái lẻ tẻ như gạo, muối,
nước mắm, xì dầu, chén bát… ngay cả vật dụng
nhà bếp, rồi tôm, mực, cá, các loại thịt heo,
bò, gà … cũng có luôn, chúng tôi tha hồ mua
sắm những gì mình cần, lúc ra về còn được bà
chủ tiệm tặng cho mỗi người một cây móc...lỗ
tai, ai nấy cám ơn rối rít vì được gãi đúng
chỗ ngứa, nhưng lúc đó đâu biết rằng đây là
đìều tối kỵ (ngoáy tai bằng vật kim khí
nhọn).
Tới đây có người sẽ thắc mắc, tiền đâu mà
mua sắm khi vừa mới chân ướt, chân ráo đến
nơi này. Lại một điểm son nữa cần phải nhắc
đến là Chính Phủ Úc chu đáo đến mức đã ứng
trước cho chúng tôi mỗi gia đình là $150,
tùy theo gia đình nào đông người thì được
nhiều hơn, người nào độc thân thì được ít
hơn (lương một công nhân lúc đó là $150/tuần
chưa trừ thuế và tiền chợ mỗi tuần là khoảng
$20 cho một gia đình 4 người) mà không cần
biết chúng tôi có tiền hay không, rồi sẽ
tính sau, khi chúng tôi bắt đầu nộp đơn xin
trợ cấp. Nhờ thế mà chúng tôi đã chuẩn bị
được một cái Tết đầu tiên thật rôm rã
...
Ba
mươi năm trôi qua, một khoảng thời gian đủ
dài và rất quan trọng cho một đời người, và,
tuổi già cứ xầm xập “nhào” tới, vậy mà tôi
chưa một lần được hưởng lại cái Tết nơi quê
nhà. Không phải là không thực hiện được
nhưng vì công việc cứ bân bịu vào thời đìểm
không thích hợp, rồi cứ hẹn lần, hẹn lữa,
đành phải ngồi ghi lại kỷ niệm của những cái
Tết đặc biệt năm xưa
...
WL sưu tầm
Chuyện kế
tiếp =>