|
|
Theo
nhiều sử sách Trung Hoa cho biết, thì vào thời Hoàng Đế, trên núi Độ Sóc ở biển
Đông, có một cây Đào thần kỳ, có hai vị thần tên gọi Thần Đồ và Uất Lũy chuyên
cai quản lũ quỷ dữ, con quỷ nào quậy phá quá thì bị hai vị thần dùng thừng bện
bằng cây sậy bắt trói đem cho hổ ăn. Do đó, Hoàng Đế đã sai người lấy gỗ đào tạc
hình Thần Đồ, Uất Lũy và con hổ, lại gài cả thừng bằng sậy vào đó, rồi để bên
cửa để trừ tà đuổi quỷ, tục gọi là Môn thần (Thần canh cửa).
Vào thời Chiến Quốc, vùng Trung Nguyên đã thấy có tục này, lâu dần về sau đã trở
thành phong tục phổ biến trong dân gian. Cứ vào dịp Xuân về, lại có tục vào ngày
mồng Một tháng Giêng, mỗi nhà lấy mảnh gỗ Đào vẽ tượng trưng hình hai vị thần
nói trên, gọi là bùa Đào (Đào phù) để treo lên cửa, lại dán cả tranh vẽ gà và
treo chiếc thừng sậy lên cửa để trừ tà, trừ bách quỷ.
Về sau, người ta chỉ viết tên Thần Đồ, Uất Lũy lên mảnh gỗ đào mà không cần vẽ
hình. Đến thời Ngũ Đại Hậu Thục (919-965), Thục chúa là Mạnh Sưởng đã đích thân
cầm bút viết lên mảnh gỗ đào hai vế đối:
Nghĩa là:
Năm mới tụ phúc lớn
Tiết đẹp gọi xuân dài
Mọi người cho đây là đôi câu đối Tết sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Người
Trung Hoa từng gọi câu đối Tết với nhiều tên gọi khác nhau: Xuân liên, đối liên,
môn đối, đối tử... Song tên gọi Xuân liên là phổ biến hơn cả.
Ở Việt Nam thời trước, câu đối thường được gọi là đối liễn. Từ đời Tống trở đi,
cứ đến dịp Tết Nguyên đán thì các nho sĩ lại đua nhau làm câu đối mừng Xuân mới.
Nhà thơ lớn đương thời là Tô Đông Pha (1036-1101) còn để lại một giai thoại hết
sức thú vị về việc làm câu đối Tết. Truyện kể rằng, nhân dịp dọn nhà mới vào
đúng dịp năm mới, Tô Đông Pha đã làm một đôi câu đối như sau:
Nghĩa là:
Năm mới, cảnh mới, nhà mới
Gió xuân, mưa xuân, sắc xuân
Sau khi đôi câu đối được dán lên hai bên cổng, kẻ qua người lại đều tỏ ra thích
thú về cái ý mùa Xuân và năm mới. Thế rồi đến sáng hôm sau, đôi câu đối đã bị
bóc trộm mất. Tô Đông Pha vừa tức cười kẻ nào đó, vừa bực mình vì phải mất công
viết lại. Ông bèn viết hẳn một đôi câu đối có nội dung khác:
Nghĩa là:
Phúc không hai lần tới
Họa chẳng một phen về
Bà vợ nhà thơ cằn nhằn rằng câu đối Tết mà viết thế thì xúi quẩy lắm. Mà có lẽ
mọingười cũng nghĩ như bà vợ nhà thơ, nên qua đêm câu đối vẫn còn, không bị ai
bóc trộm nữa. Còn Tô Đông Pha thì chỉ cười thầm, rồi ông lấy bút mực viết nối
thêm vào đôi câu đối mấy chữ thành hai câu như sau:
Nghĩa là:
Phúc không hai tới sớm nay tới
Họa chẳng một đi đêm qua đi
Đây chẳng qua là một định kiến trong dân gian, nên từ lâu đã có câu "Họa vô đơn
chí/ Phúc bất trùng lai" (Họa không một lần tới/ Phúc chẳng hai phen về). Song
nhà thơ Tô Đông Pha lại muốn nói khác đi, muốn xóa tan cái định kiến đó: Phúc
vẫn đến hai lần, hôm qua đến rồi, sớm nay lại đến; còn họa chẳng tới lần nào,
bởi từ đêm qua nó đã đi mất tăm rồi...
Đó là giai thoại về các danh sĩ tham gia viết câu đối Tết ở thời Tống. Còn theo
một số tài liệu khác cái tên “Xuân liên” được định danh chính thức trong phong
tục đón năm mới lại do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đặt cho. Tương truyền, sau
khi định đô ở Nam Kinh, Minh Thái Tổ đã hạ lệnh cho mọi người vào trước đêm 30
Tết đều phải làm đôi câu đối dán ở cổng. Nhà vua vi hành các phố phường để kiểm
tra. Chuyện còn kể rằng, khi nhà vua tới một phố nọ, thấy nhà một người làm nghề
hoạn lợn chưa có câu đối Xuân, hỏi ra được biết chủ nhà cảm thấy nghề hèn mạt
nên không muốn viết câu đối, nhà vua đã nói lời khích lệ rồi làm cho chủ nhà một
đôi câu đối như sau:
Nghĩa là:
Hai tay mở toác đường sinh tử
Một búa phanh phui gốc thị phi
Câu đối dán lên, nhân dân kinh thành đều trầm trồ, không ngờ nhà anh thiến lợn
mà lại có đôi câu đối Tết đầy khí phách như thế. Như vậy, từ đời Minh, câu đối
Xuân/ Tết bắt đầu được thịnh hành như một phong tục, và bắt đầu được viết phổ
biến trên giấy thay vì viết trên mảnh gỗ Đào như xưa kia. Thời bấy giờ, người
Trung Hoa thường hay dùng giấy đỏ để viết câu đối Tết, hoàng cung và tôn thất
dùng giấy trắng, mép viền đỏ/ xanh.
Điều thú vị là sách Yên Kinh tuế thì ký còn cho biết: Cứ vào khoảng cuối tháng
Chạp hàng năm, một số văn nhân mặc khách, nhất là các thư pháp gia lại đến ngồi
dưới mái hiên hè phố, để viết thuê câu đối Tết, vừa có dịp phô bày tài nghệ vừa
kiếm thêm chút tiền lộc đầu Xuân...
Đó là nói về mặt cội nguồn và ý nghĩa sâu xa của câu đối Tết như là một phong
tục ngày Xuân. Còn về mặt văn học thì đúng như Dương Quảng Hàm đã nhận định: một
đặc tính của văn chương chữ Hán (Trung Quốc, Việt Nam) là phép đối, không những
là văn vần (thơ, phú) mà các loại biền văn (câu đối, tứ lục, kinh nghĩa) và đến
cả văn xuôi nhiều khi cũng đặt thành hai câu đối nhau, hoặc hai đoạn trong một
câu đối nhau. Về phép đối trong thuật làm câu đối, Dương Quảng Hàm cũng cho biết
sơ lược về các phép đối ý (nội dung tư tưởng), đối chữ (tự loại), đối thanh (bằng,
trắc)...
Đó là nói qua về phép làm câu đối nói chung (trong đó có câu đối Tết). Còn về
treo/ dán câu đối cũng có phép tắc của nó, không thể tùy tiện muốn treo/ dán thế
nào cũng được. Trong một đôi câu đối bao giờ cũng có hai vế, được gọi là vế
"thượng" và vế "hạ", tức vế trên và vế dưới, vế thượng (trên) phải treo/ dán bên
hữu (phải), còn vế hạ (dưới) thì treo/ dán bên tả (trái). Còn muốn biết vế nào
là thượng, vế nào là hạ thì chỉ cần xem chữ cuối cùng; nếu là thanh trắc (sắc,
nặng, hỏi, ngã) thì đó là vế thượng; còn thanh bằng (dấu huyền hoặc không dấu)
tức là vế hạ (Trong thực tế, không phải ai cũng nắm vững quy tắc này khi treo
hay dán câu đối Tết, cũng như câu đối nói chung).
Như vậy, bắt nguồn từ tục treo bùa đào (đào phù), câu đối Tết trong quá trình
diễn biến lịch sử đã kết hợp với các thể loại văn học chữ Hán để trở thành một
thể loại độc lập có chức năng và đặc trưng riêng. Việt Nam - Trung Quốc, do hoàn
cảnh địa lý - lịch sử, nên văn hóa - phong tục có nhiều điểm gần gũi.
Tuy nhiên, tục chơi câu đối Tết của
Trung Hoa truyền sang ta từ lúc nào không thấy sử sách cũ ghi chép. Song căn cứ
vào bài thơ Nôm Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải được viết khoảng cuối thế kỷ
XVI đầu thế kỷ XVII còn có câu rằng: Đào phù cấm quỷ phòng linh ngăn tà, thì có
thể biết tục treo bùa đào (hình thức tiền thân của câu đối Tết) cũng đã từng
xuất hiện ở Việt Nam thời này. Còn theo nhiều sử sách cũ thì vào thời Lê Thánh
Tông (1460) có khá nhiều giai thoại phản ánh việc nhà vua đi vi hành ở kinh
thành Thăng Long để xem câu đối Tết của phường phố. Và bấy giờ, nhà vua từng làm
câu đối Tết cho các nhà dân làm nghề thợ nhuộm, hót phân... Như thế, có thể biết
chắc chắn rằng, ít ra từ thời Lê Thánh Tông, tục chơi câu đối Tết ở Việt Nam đã
rất thịnh hành.
WL Sưu tầm
|