Một cái tết miền Nam sẽ thiếu vắng đi nhiều
phong vị nếu trước ngõ không có nhành mai vàng và chái bếp bên hiên nhà đêm 30
Tết không đỏ lửa để nấu một nồi bánh tét.
Dù
thời gian có qua đi, biết bao món ngon, vật lạ từ bên ngoài du nhập vào, thế
nhưng đòn bánh tét của ngoại tôi, của má tôi ngày xưa đã gói, đã nấu vẫn mãi là
một phẩm vật không thể nào thiếu được trong mấy ngày Tết.
Đôi khi tiếc cho một không gian thị thành với những nhà ống lô nhô, với những
chung cư san sát. Hào nhoáng đó, nhưng mỗi khi Tết đến xuân về lại như thấy thèm
một khoảnh sân vườn ngày xưa. Đủ để kê một bộ ván ngựa bên hiên nhà cho ngoại,
cho má bày biện lá chuối, dây lạt, rồi cả thúng nếp vừa mới vút xong đêm qua,
thau đậu xanh vừa nấu chín tới để làm nhân, mâm thịt mỡ phơi vừa nắng trong ngần,
thi thoảng điểm xuyến một vài miếng hành tím ngắt, vài hạt tiêu đen nhánh.
Nằm dài dưới bộ ván ngựa thể nào cũng có chú mèo tam thể uể oải lười biếng hay
chú chó vện lanh chanh, lóc chóc đang hóng hớt chờ được chủ cho một vài miếng
nhân bánh thừa thẹo nào đó.
Nhớ da diết hình ảnh má thì gói bánh tét, anh Hai thì hái khế đem nướng lên để
lau chùi mấy bộ lư hương, chân đèn. Mới đó đã trở nên xa ngái, như thể là chuyện
ngày xửa, ngày xưa! Mà dường như những cư dân ở phố thị ai mà chẳng phải là kẻ
xa quê!
Trong
những dịp Tết thì mới thấy sự sáng tạo tài tình của người dân miền Nam khi biến
tấu đòn bánh cổ truyền. Nếp để gói thì pha chế thêm vào đó lá cẩm tím ngắt, hoặc
cho vào lá dứa để được một màu xanh bình dị, dân dã. Nhân cho bánh tét cũng đa
dạng không kém. Có một chút nâu nâu của thịt heo nạc, một chút trắng trong ngọc
thạch của miếng thịt mỡ lưng, màu vàng đích thị là đậu xanh cà nhuyễn rồi, màu
đỏ là của lạp xưởng, màu vàng gạch tôm là của lòng đỏ hột vịt muối… và cả màu đỏ
óng ánh hổ phách của bánh tét nhân chuối nữa chứ!
Cách
chế biến của các bà, các chị cũng công phu không kém. Nếp có thể chỉ cần vút
sạch, nêm nếm vào đó ít muối, ít tiêu hành, người miền Tây thì hay cho vào đó
một ít dừa nạo. Cũng có người tỉ mẩn đem dừa vắt lấy nước cốt cho vào chảo thắng
vừa tới rồi đem nếp vào xào cho đến khi dẻo mặt, sít tay. Khi nếp đã xào rồi thì
gói dễ dàng hơn, chỉ cần trải nếp ra hình chữ nhật, cho nhân cũng đã nắn ra dạng
hình hành rồi gói. Và loại bánh này cũng không cần nấu nhiều lửa như cách gói
đầu tiên. Các bà, các chị chỉ cần đem hấp cách thủy độ 5, 6 tiếng là bánh đã
chín tới rồi.
Ở Phú Quốc lại có một loại bánh tét gói bằng lá mật cật (một loại lá cọ), do
chất liệu lá nên bánh khi gói ra lại có hình tam giác. Nếp của bánh tét mật cật
thường được dùng lẫn với nước cốt của lá bù ngót nên khi bánh chín tới có màu
xanh rất đẹp, lại có mùi thơm bùi rất đặc trưng. Tưởng rằng đây là sản vật riêng
của xứ đảo Phú Quốc. Mới đây, khi lên Lạng Sơn, dừng chân ở một hàng quán ven
đường lại thấy cái bánh quen thuộc này. Cũng gói bằng lá cọ, bánh cũng được gói
với hình thù tam giác như vậy. Chỉ khác là bánh ở Lạng Sơn thì họ pha lá cẩm vào
nếp và được gọi là: bánh chưng cẩm!
Quả là đòn bánh cổ truyền ngày xưa nay đã lên ngôi. Nó như một cọng dây vô hình
nắm níu mỗi người chúng ta về với ngày xưa. Về với cội nguồn dân tộc đôi khi nó
chỉ giản đơn là vậy!
Tuyến Lê - Sưu tầm